Chính sách ruộng đất Nông_nghiệp_Việt_Nam_thời_Tiền_Lê

Nông nghiệp vẫn là nền tảng cơ bản của nền kinh tế đương thời. Phần lớn ruộng đất ở làng xã phụ thuộc vào triều đình, do triều đình sở hữu[1].

Nhà Tiền Lê còn khuyến khích dân các nơi khai khẩn đất hoang để lập làng, mở rộng diện tích đất công[1]. Những ruộng đất ở làng xã và ruộng mới hình thành do khai hoang, nhân dân theo tập tục chia ruộng đều cho nhau cày cấy và nộp thuế cho triều đình[2].

Về chính sách phân phong ruộng đất, nhà Tiền Lê cơ bản kế thừa nhà Đinh. Chế độ phân phong cho các công thần, quan lại chỉ là tạm thời, để hưởng thuế, không trở thành ruộng đất tư hữu và phải trả lại triều đình sau khi được người phong qua đời[3].

Thời Tiền Lê, ngoài một số công thần, vua Lê Đại Hành còn ban đất cho các hoàng tử làm thực ấp. Sử sách ghi lại 11 hoàng tử được ban thực ấp là:

  1. Lê Ngân Tích (Long Tích) làm Đông Thành vương
  2. Lê Long Việt làm Nam Phong vương
  3. Lê Long Đinh làm Ngự Man vương, đóng ở Phong Châu, tỉnh Thanh Hóa
  4. Lê Long Đĩnh làm Khai Minh vương, đóng ở Đằng Châu, xã Bắc Kiên, Kim Động, Hải Dương
  5. Lê Long Cân làm Ngự Bắc vương, đóng ở Phù Lan
  6. Lê Long Tung làm Định Phiên vương, đóng ở Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang, Thanh Hóa
  7. Lê Long Tương làm Phó vương, đóng ở Đỗ Động Giang, Hà Nội ngày nay
  8. Lê Long Kính làm Trung Quốc vương, đóng ở Càn Đà, Mạt Liên
  9. Lê Long Mang làm Nam Quốc vương, đóng ở Vũ Lung
  10. Lê Long Đề (Minh Đề) làm Hành Quân vương, đóng ở Bắc Ngạn, Cổ Lãm
  11. Con nuôi làm Phù Đái vương, đóng ở Phù Đái

Nhà chùa cũng sở hữu một số đất đai[1]. Ruộng đất tư nhân do một số trang trại hình thành từ thời Bắc thuộc được triều đình trung ương cho phép tồn tại, thuộc quyền sở hữu tư nhân và được phép mua bán[4].